Chu Văn An: ngôi sao Bắc Đẩu trên bầu trời Việt Nam, người thầy giáo của muôn đời

12/4/2023 11:45:00 AM
Chu Văn An sinh năm Nhâm Thìn (1292) và mất năm Canh Tuất (1370), còn gọi là Chu An, Chu Văn Trinh, tự là Linh Triệt, hiệu là Tiểu Ẩn, người thôn Văn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm, nay là Thanh Trì, Hà Nội.

 

Chu Văn An sinh năm Nhâm Thìn (1292) và mất năm Canh Tuất (1370), còn gọi là Chu An, Chu Văn Trinh, tự là Linh Triệt, hiệu là Tiểu Ẩn, người thôn Văn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm, nay là Thanh Trì, Hà Nội.

Ông nổi tiếng là ngôi sao Bắc đẩu trên bầu trời Việt, là bậc “Vạn thế sư biểu” như cách gọi của các sử gia Việt Nam. Vậy cốt cách của ông có gì đặc biệt, là tấm gương sáng để hậu thế soi chiếu?

Cảm kích trước người thầy đặc biệt của nền giáo dục Việt Nam, vua Tự Đức đã làm bài thơ ca ngợi ông:

Thượng tướng Sơn Đẩu thế gian sư,

Tâm dữ nhân quai nhất thế trì.

Thất trãm sớ thành thiên địa giám,

Trực thanh bất cộng hữu Trần suy.

Dịch nghĩa:

Sơn Đẩu ngôi cao một vị thầy,

Khác người thiên hạ tấm lòng ngay.

Sớ dâng “thất trảm” trời đất chứng,

Ngay tiết, Trần suy, tiết chẳng thay.

Quả thực, ông là người ngay thẳng, chính trực, trung trinh.

 Dưới triều Trần Dụ Tông, vì vua ham mê chơi bời, xao lãng chính sự, quyền thần làm nhiều sự trái phép. Chu Văn An can nhưng vua không nghe. Ông bèn dâng sớ xin chém bảy tên nịnh thần, tất cả đều là những kẻ có thế lực và được cưng chiều; bấy giờ gọi là “Thất trảm sớ”. Sớ dâng lên, không được trả lời, Chu Văn An liền treo trả mũ áo, trở về điền viên. Yêu phong cảnh núi Chí Linh, ông đến ở ẩn tại đó.

Ông là người vô cùng chăm chỉ

Thuở nhỏ ông luôn ham mê đọc sách. Sau này đã là Tư nghiệp Quốc Tử Giám rồi nhưng ông vẫn luôn chăm chỉ biên soạn sách dạy học và tài liệu y học chữa bệnh cứu người.

Chu Văn An luôn quan tâm đến việc biên soạn tài liệu để giúp cho người học có được tài liệu học tập. Đây là một điểm mới trong cách quan niệm về nội dung và phương pháp giáo dục của ông. Không chỉ chú trọng nội dung giáo dục về đạo làm người theo tinh thần Nho gia (ông viết “Tứ thư thuyết ước” - đã thất lạc - và có lẽ đây là bộ sách đầu tiên luận giải về Nho giáo một cách có hệ thống) mà Chu Văn An còn biên soạn cả những tài liệu về y học trị bệnh cứu người. “Y học yếu giải tập chu di biên” là cuốn sách do ông biên soạn. Ông cũng viết hai tập thơ “Quốc ngữ thi tập” và “Tiều ẩn thi tập” để bồi bổ thêm tinh thần và kiến thức sâu rộng, toàn diện cho học trò.

Ông là người có tư duy lớn, tạo thành tầm vóc lớn

Việc Chu Văn An viết sách không chỉ đơn giản là để làm tài liệu học tập mà cao hơn cả là qua đó, để gìn giữ và khuếch trương di sản văn hóa của dân tộc (dùng chữ Nôm), khẳng định sự độc lập về văn tự đối với nền văn hóa Hán. Cũng trong các tác phẩm ấy, để thể hiện rõ tính chất dân tộc trong văn hóa, thi ca, ông không hề vay mượn những điển tích ngoại lai mà chỉ miêu tả những gì hiện thực trước mắt, những cảnh đẹp thiên nhiên và con người Đại Việt. Đây là phong cách đặc biệt trong các nhà nho thời Trần mà đi đầu là nhà sư phạm mẫu mực Chu Văn An.

Chu Văn An luôn chủ trương giáo dục không phân biệt đối tượng

Thời nhà Trần đã có một số trường công do triều đình mở ra như Quốc Tử Giám, trường học ở Phủ Thiên Trường,… nhưng phần lớn các trường này là chỉ dành cho con em quý tộc. Chu Văn An đã mở trường tư thục Huỳnh Cung ở quê nhà để thu nhận học trò nghèo có ý chí trau dồi kinh sử để thi thố tài năng giúp nước.

Thực hiện tư tưởng “hữu giáo vô loại” của Khổng Tử, ông nhận dạy tất cả những người cầu học: Thái tử con vua (sau này làm vua); các học trò đỗ đạt cao, làm quan trong triều (như Lê Quát, Phạm Sư Mạnh) và biết bao nhiêu học trò khác tuy không thành đạt được như vậy nhưng chí ít cũng thấm đẫm tư tưởng và tinh thần của ông mà đem ảnh hưởng đó tác động đến sự thay đổi của xã hội đương thời.

Ông có quan điểm sống rõ ràng

Chu Văn An dẫn dắt học trò đi theo con đường hành đạo của một nhà nho chân chính: sống trong thời loạn lạc, dẫu có thất thế cũng không pha màu u uất, xa lánh trần tục một cách hoàn toàn mà vẫn cứng cỏi trụ vững ở đời, trái tim vẫn chung nhịp với thế cuộc bể dâu. Tuy ở ẩn nhưng “Tấc son nào đã như tro nguội/ Nghe nói Tiên hoàng giọt lệ sa”. Hành động ông trở về triều mừng vua Trần Nghệ Tông lên ngôi (sau sự biến Dương Nhật Lễ) đã thể hiện rõ quan điểm sống không xa rời những biến chuyển của lịch sử.

Ông là người tình cảm rất thương yêu học trò, cách dạy của ông gắn liền với thực tế cuộc sống

Ông dạy học trò phải biết kính yêu người dân lao động, có trách nhiệm chăm lo đến đời sống của họ. Tương truyền, trong khi dạy học ở trường Huỳnh Cung gặp phải năm trời đại hạn, Thầy Chu nói với một học trò (sau này ông mới biết là Thủy thần) đem tài năng cầu trời làm mưa để cứu dân. Người học trò ấy đã hi sinh thân mình vẩy mực lên trời cầu mưa cứu cho dân qua khỏi đại hạn đói khát. Tuy câu chuyện có tính chất huyền hoặc nhưng nó cũng cho chúng ta thấy sự lưu truyền về cách dạy học gắn với thực tế đời sống của tiên triết Chu Văn An.

Nhiều học trò sau của ông vì tình cảm gắn bó của thầy mà sau này đã làm nhà cạnh mộ ông để tiện bề hương khói.

Ông là người sống đạo đức, đề cao năng lực và uy tín của người thầy

Chu Văn An xác định, người Thầy luôn phải là tấm gương sáng về đạo đức, uy tín và tài năng. Suốt cuộc đời, ông cống hiến cho sự nghiệp giáo dục. Ông là một nhà sư phạm mẫu mực, suốt cuộc đời gắn bó, tận tụy với nghề dạy học, không ham công danh phú quý mà quên đi công việc “dạy chữ, dựng người”. Việc có nhiều đối tượng học trò đến xin học (tương truyền có tới hơn ba nghìn người) và trưởng thành dưới mái trường của ông đã thực sự chứng tỏ uy tín và đạo đức của ông. Uy tín ấy vượt ra khỏi cả sự lưu truyền trần thế, khiến cho vua Thủy Tề cũng phải gửi con theo học (theo truyền thuyết). Như thế, tư tưởng hành đạo, noi theo gương sáng của ông Tổ đạo Nho (Khổng Tử) “học không biết chán, dạy người không biết mỏi” (Học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện) đã được Chu Văn An hiện thực hóa. Với việc mở trường tư thục dạy học, ông đã góp phần làm cho không khí học tập cuối thời Trần trở nên sôi nổi.

Ông luôn một đời nhiệt tâm, chân thành cống hiến cho việc dạy học, không mong cầu điều gì

Suốt cuộc đời của mình, ông  đem sự nhiệt tình và tài năng của mình cống hiến cho đất nước. Việc ông không hề có tham vọng đem tài năng thi thố làm quan mà lại được mời ra làm một chức quan trông coi việc giáo dục cho triều đình đã thể hiện rõ tinh thần của Thánh hiền đạo Nho: “Không cầu người biết đến mình mà chỉ lo mình không có tài đức để người ta biết đến”.

Tư tưởng của ông một đời phụng sự, không mong cầu báo đáp là bài học cho thế hệ sau muôn đời noi gương.

Xin mượn chính lời thơ của ông để kết thúc bài như chính dư âm của cuộc đời ông còn mãi là tấm gương cho bao thế hệ noi theo:

Thân dữ cô vân trường luyến tụ

Tâm đồng cổ tỉnh bất sinh lan.

Nghĩa là:

Đời như đám mây lẻ, ngừng mãi trong không gian

Lòng như giếng nước xưa, không bao giờ gợn sóng

Lòng ông luôn như giếng nước thanh sạch, trong sáng, không bao giờ gợn sóng vậy.

Suckhoecuocsong.vn

Các tin khác