Chuyên gia hướng dẫn cách phòng và điều trị các bệnh trên tôm sú

11/13/2019 1:45:00 PM
Việc mở rộng quy mô sản xuất, mức độ thâm canh hóa ngày càng cao, biến đổi khí hậu, môi trường nước ngày càng bị ô nhiễm dẫn đến sự xuất hiện ngày càng nhiều mầm bệnh nguy hiểm đe dọa đến sự phát triển của tôm và gây thiệt hại kinh tế nặng nề cho người nuôi tôm.

 

Việc mở rộng quy mô sản xuất, mức độ thâm canh hóa ngày càng cao, biến đổi khí hậu, môi trường nước ngày càng bị ô nhiễm dẫn đến sự xuất hiện ngày càng nhiều mầm bệnh nguy hiểm đe dọa đến sự phát triển của tôm và gây thiệt hại kinh tế nặng nề cho người nuôi tôm. Bài viết dưới đây sẽ cung cấp những thông tin hữu ích cho người nuôi về nguyên nhân, cách phòng và điều trị một số bệnh ở trên tôm sú

Bệnh phát sáng ở tôm sú

Bệnh phát sáng có thể xuất hiện trong tất cả các giai đoạn từ ương giống cho đến khi trưởng thành.

Nguyên nhân: Do tôm bị nhiễm vi khuẩn thuộc nhóm Luminescencet Vibrio: chủ yếu và gây nguy hiểm nhất là Vibrio harveyi. Các vi khuẩn này có enzyme Luciferase gây ra sự phát sáng. Tôm bị nhiễm bệnh từ các trại giống, ao ương sang ao thịt, lây từ tôm mẹ sang ấu trùng trong giai đoạn sinh sản.

Dấu hiệu:

Khi bị nhiễm bệnh tôm thường yếu ớt, bơi vô định hướng, phản ứng chậm, mang tôm có mẫu sẫm, gan bị teo lại và tôm thường mất chức năng tiêu hóa. Đặc biệt, vào ban đêm tôm thường phát sáng màu trắng hoặc màu xanh lục, khi quan sát bằng kính hiển vi sẽ thấy các vi khuẩn phát sáng di chuyển trong cơ thể. Ăn giảm, không có thức ăn và phân trong ruột, phân tôm trong nhá ít, chậm lớn, có thể bị đóng rong ở mang và vỏ. Tôm chết đáy rải rác tuỳ vào mức độ nặng nhẹ của bệnh. Nếu nhiễm bệnh 100% đàn tôm trong giai đoạn 45 ngày nuôi đầu, có thể chết hàng loạt gây thiệt hại về kinh tế cho người nuôi.

Bệnh đen mang (tím mang) ở tôm sú

Nguyên nhân: Bệnh đen mang ở tôm sú là một trong những bệnh tôm thường mắc phải nhất. Do nguồn nước nuôi bị ô nhiễm hữu cơ do thức ăn thừa, tảo tàn.

Đáy ao có nhiều mùn bã hữu cơ, hàm lượng nitrit, nitrat, và các khí độc amonia, H2S cao. Do tôm sú bị đóng rong rêu trên mang và vỏ làm mang tôm chuyển màu.

Do pH nước thấp, trong nước nếu có nhiều ion kim loại nặng (nhôm, sắt), muối của chúng kết tụ trên mang tôm làm chuyển màu đen.

Dấu hiệu:

Khi tôm bị nhiễm bệnh khi quan sát ta sẽ thấy vùng mang và vùng mô nối mang với thân tôm có màu nâu hoặc đen. Khi nhiễm nặng các phụ bộ, chân và đuôi cũng bị đen. Tôm nổi đầu do thiếu oxy, bơi lờ đờ trên mặt nước, dạt vào bờ. Tôm giảm ăn, chậm lớn và chết khi có thêm các tác nhân khác.

Mang tôm bị vi khuẩn, nấm hoặc nguyên sinh động vật ký sinh phá hủy khi bệnh nặng.

Phòng và điều trị bệnh đen mang ở tôm sú:

+ Phòng bệnh: Tẩy dọn ao kỹ trước khi thả tôm. Lắng lọc kỹ nước trước khi cấp vào ao nuôi tôm sú. Chọn mật độ nuôi phù hợp với tay nghề và kỹ thuật. Kiểm soát tảo trong ao, tránh tảo tàn đồng loạt (dùng đường, BKC...). Tăng cường sục khí để tăng hàm lượng oxy. Tránh dư thừa thức ăn, định kì dùng men vi sinh để giảm phân hủy các chất ô nhiễm hữu cơ trong ao, giữ đáy ao sạch. Bổ sung Vitamin C và men tiêu hóa vào thức ăn cho tôm hàng ngày

+ Điều trị bệnh: Người nuôi tiến hành thay nước đáy hoặc xiphong đáy, đánh zeolite, dùng chế phẩm yucca, men vi sinh, bổ dung vitamin C vào thức ăn.

Nếu tôm bị nhiễm bệnh do nhiễm khuẩn người nuôi có thể diệt khuẩn nước bằng BKC, iodin, v.v... thay nước đáy, dùng men vi sinh xử lý đáy ao, bổ sung vitamin C và đa vitamin vào thức ăn

Tăng cường oxy cho ao nuôi, sử dụng men vi sinh để phân hủy chất thải tích tụ ở đáy ao, cắt tảo, giảm khí NH3, NO2 trong ao nuôi. Sau đó, tiến hành thay nước cho ao nuôi.

Hội chứng tôm chết sớm EMS/ bệnh hoại tử gan tụy cấp AHPND

Nguyên nhân: Do vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus, tạo ra độc tố làm phá hủy mô và rối loạn chức năng gan tụy trong hệ tiêu hóa của tôm.

Dấu hiệu: Khi tôm nhiễm bệnh tôm chậm lớn, bơi lờ đờ, tấp mé, ruột rỗng, gan nhợt nhạt, có màu trắng, đôi khi gan sưng, vỏ mềm, tôm bơi lờ đờ trên mặt nước và chết nhanh sau đó.

Phòng và điều trị:

Chọn lựa con giống tốt, khỏe mạnh từ các cơ sở bán giống uy tín, có kiểm định chất lượng.

Kiểm tra mật độ vi khuẩn vibrio trong ao nuôi, trong đất và trên tôm để chắc chắn mật số của vi khuẩn này luôn ở mức an toàn.

Bổ sung vi sinh đường ruột và vi sinh xử lý nước ao

 Thường xuyên kiểm tra định kỳ vi sinh bằng đĩa thạch và kiểm tra bằng Pockit (xét nghiệm PCR) để quản lý và xử lý vi khuẩn có hại.

Bệnh đóng vôi, rong

Nguyên nhân: Tôm mắc bệnh đóng vôi, rong do động vật nguyên sinh và vi khuẩn tác động lẫn nhau gây ra bệnh.

Dấu hiệu: Tôm toàn thân bị dơ, tập trung ở phần đầu ngực hay toàn thân, mang và các phụ bộ. Tôm bị bệnh này rất yếu, bỏ ăn, ít di chuyển và cặp mé bờ, đồng thời mang thường bị tổn thương hoặc biến đổi màu sắc.

Phòng và điều trị bệnh đóng vôi, rong

Tăng cường thay nước nhằm cải thiện môi trường sống của tôm sử dụng men vi sinh để cắt tảo, giảm chất hữu cơ trong môi trường ao nuôi.

Nếu tỷ lệ nhiễm cao, chúng ta có thể dùng formol liều lượng từ 15-20ppm đánh vào ban ngày sau đó thay nước, nếu đóng rong vẫn còn ta có thể đánh tiếp lần hai.

Bệnh mềm vỏ kinh niên

Nguyên nhân: Do thức ăn dùng trong nuôi tôm thiếu chất khoáng, vitamin,… Hoặc do thức ăn kém chất lượng, ôi thiu hoặc lượng thức ăn thiếu. Ao nuôi có nhiều chất độc như: các khí độc sinh ra do sự phân huỷ của các chất hữu cơ, chất độc sinh ra do tảo độc hoặc chất độc do nguồn nước thải công nghiệp,thuốc trừ sâu

Dấu hiệu: Sau khi lột xác, vỏ tôm không cứng lại được, vỏ thường bị nhăn nheo, dễ rách nát nên dễ bị cảm nhiễm của các tác nhân gây bệnh, tôm có vỏ mềm yếu, vùi mình dạt bờ.

Phòng và điều trị bệnh mềm vỏ kinh niên ở tôm:

Sử dụng thức ăn có chất lượng tốt, đáp ứng đầy đủ hàm lượng P: Ca là 1: 1, bổ sung một lượng Vitamin tổng hợp, không nuôi mật độ quá cao.

Đảm bảo độ pH 7,5 đến 8,5 trong suốt quá trình nuôi. Tránh sử dụng nguồn nước từ nước thải công nghiệp, nông nghiệp, sinh hoạt chảy vào ao nuôi.

Bệnh đỏ thân trên tôm sú

Bệnh đỏ thân, đốm trắng là bệnh phổ biến và thường gặp trên cả tôm thẻ và tôm sú. Bệnh có thể xuất hiện ở tất cả các giai đoạn phát triển của tôm, đặc biệt từ tháng nuôi đầu tiên đến tháng nuôi thứ hai trong ao nuôi thịt.

Nguyên nhân: Bệnh do loại virus có tên khoa học Systemic Ectodermal and Mesodorma Baculoviras (SEMBV) gây ra, virus này nhiễm cảm ở một số cơ quan như: mang, lớ biểu vì mô của vỏ, thần kinh, dạ dày và một số cơ quan khác trên con tôm.

Phòng và điều trị bệnh: Nếu phát hiện tôm bị bệnh đỏ thân, trong trường hợp tôm đã đạt kích cỡ thương phẩm thì nên thu hoạch ngay sau đó xử lý nước trong ao trước khi xả ra môi trường.

Bệnh đầu vàng (Yellow head disease)

Nguyên nhân: Bệnh đầu vàng xuất hiện trên tôm sú do

Nguyên nhân: DO virus YHV (yellow head virus) là virus có acid nhân RNA chuỗi đơn, hình que, kích thước 44 x 173 nm, thuộc loài Nidovirales, họ Ronaviridae, chi Okavirus. Tôm bị lây nhiễm do có vật chủ trung gian mang mầm bệnh vào môi trường nước.

Dấu hiệu: Tôm ăn nhiều khác thường trong vài ngày, rồi bỏ ăn đột ngột. Sau đó 1-2 ngày tôm bơi lờ đờ không định hướng trên mặt nước hoặc ven bờ, bám vào bờ.

Khi quan sát thấy phần đầu ngực, gan, tụy chuyển màu vàng, gan có thể có màu trắng nhạt, vàng nhạt hoặc nâu, thân tôm có màu nhợt nhạt

Tôm chết rải rác trong vó rồi chết với mức độ tăng dần. Tôm chết rất nhanh trong vòng 3-5 ngày (có thể chết gần 100%) sau khi xuất hiện các triệu chứng.

Phòng và điều trị bệnh đầu vàng ở tôm sú

Để đảm bảo tôm phát triển khỏe mạnh không nuôi nuôi mật độ quá cao, luôn cung cấp đủ oxy cho ao nuôi, giữ môi trường nước ổn định.

Để ngăn ngừa các bệnh thường gặp trên tôm sú người nuôi cần

+ Chuẩn bị ao nuôi đúng kỹ thuật, có thể kết hợp sử dụng men vi sinh để xử lý nước và đáy ao nuôi trước khi thả tôm.

+ Định kỳ bổ sung Vitamin C, các khoáng chất cần thiết và chế phẩm tự nhiên cho tôm

+ Áp dụng các mô hình nuôi tiên tiến, hiệu quả; hệ thống quạt nước phù hợp để đảm bảo cung cấp oxy phù hợp; theo dõi và điều chỉnh pH, độ mặn trong ao nuôi hợp lý, kịp thời.

 + Chọn tôm giống khỏe tại các cơ sở uy tín có kiểm định chất lượng con giống, thả đúng thời điểm với mật độ vừa phải.

+ Quản lý tốt việc cho ăn, đảm bảo cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho tôm và không để thức ăn dư thừa gây ô nhiễm môi trường ao nuôi.

+ Áp dụng biện pháp nuôi tôm an toàn sinh học

+ Không nên sử dụng kháng sinh để phòng bệnh đặc biệt là các bệnh do nhiễm virus, không sử dụng các loại thuốc, chế phẩm bị cấm sử dụng trong sản xuất, kinh doanh thủy sản đã được quy định.

Suckhoecuocsong.vn/TH

Các tin khác