Sự tích Ông Hoàng Mười và bài văn khấn chuẩn

2/22/2016 11:49:34 AM
Hàng năm không chỉ người dân Nghệ An mà cả du khách thập phương cũng đến viếng đền ông Hoàng Mười rất đông. Tuy nhiên không phải ai cũng biết ông xuất thân thế nào và tại sao đền ông Hoàng Mười lại linh thiêng đến vậy.

 

Hàng năm không chỉ người dân Nghệ An mà cả du khách thập phương cũng đến viếng đền ông Hoàng Mười rất đông. Tuy nhiên không phải ai cũng biết ông xuất thân thế nào và tại sao đền ông Hoàng Mười lại linh thiêng đến vậy. Hãy cùng suckhoecuocsong.com.vn tìm hiểu về sự tích ông Hoàng Mười và các bài văn khấn ông nào:

Ông Hoàng Mười hay còn gọi là Ông Mười Nghệ An. Ông là con của Vua Cha Bát Hải Động Đình, vốn là thiên quan trên Đế Đình, thần tiên trong chốn Đào Nguyên. Theo lệnh ông giáng trần để giúp dân phù đời. Về thân thế của ông khi hạ phàm thì có rất nhiều dị bản. Theo như ở vùng Nghệ Tĩnh thì ông được coi là Lê Khôi, vị tướng tài, cháu ruột và là người theo Lê Lợi chinh chiến trong mười năm kháng chiến chống quân Minh, sau làm đến nguyên thần tam triều Lê gia, phong đến chức Khâm Sai Tiết Chế Thủy Lục Chư Dinh Hộ Vệ Thượng Tướng Quân. Lại có một dị bản khác cho rằng ông giáng xuống trần là Uy Minh Vương Lí Nhật Quang, con trai Vua Lí Thái Tổ, cai quản châu Nghệ An.

Nhưng sự tích được lưu truyền nhiều nhất có lẽ là câu chuyện: Ông Mười giáng sinh thành Nguyễn Xí, một tướng giỏi dưới thời Vua Lê Thái Tổ, có công giúp vua dẹp giặc Minh, sau được giao cho trấn giữ đất Nghệ An, Hà Tĩnh (cũng chính là nơi quê nhà). Tại đây ông luôn một lòng chăm lo đến đời sống của nhân dân, truyện kể rằng có một lần xảy ra cơn cuồng phong làm đổ hết nhà cửa, ông liền sai quân lên rừng đốn gỗ về làm nhà cho dân, rồi mở kho lương cứu tế. Trong một lần đi thuyền trên sông, đến đoạn chân núi Hồng Lĩnh, thì lại có đợt phong ba nổi lên, nhấn chìm thuyền của ông và ông đã hóa ngay trên sông Lam. Trong khi mội người đang thương tiếc cử hành tang lễ, thì trời quang đãng, nổi áng mây vàng, bỗng thấy thi thể của ông nổi trên mặt nước nhẹ tựa như không, sắc mặt vẫn hồng hào tươi tắn như người đang nằm ngủ, khi vào đến bờ, đột nhiên đất xung quanh ùn ùn bao bọc, che lấy di quan của ông. Lúc đó trên trời bỗng nổi mây ngũ sắc, kết thành hình xích mã (có bản nói là xích điểu) và có các thiên binh thiên tướng xuống để rước ông về trời.

Sau này khi hiển ứng, ông được giao cho trấn thủ đất Nghệ Tĩnh, ngự trong phủ Nghệ An. Nhân dân suy tôn ông là Ông Hoàng Mười (hay còn gọi là Ông Mười Củi) không chỉ vì ông là con trai thứ mười của Vua Cha (như một số sách đã nói) mà còn vì ông là người tài đức vẹn toàn, văn võ song toàn (“mười” mang ý nghĩa tròn đầy, viên mãn), không những ông xông pha chinh chiến nơi trận mạc, mà ông còn là người rất hào hoa phong nhã, giỏi thơ phú văn chương, không chỉ nơi trần thế mà các bạn tiên trên Thiên Giới ai cũng mến phục, các nàng tiên nữ thì thầm thương trộm nhớ. Sau các triều đại đã sắc tặng Ông Mười tất cả là 21 sắc phong (tất cả đều còn lưu giữ trong đền thờ ông).

Cùng với Ông Hoàng Bảy, Ông Hoàng Mười cũng là một trong hai vị Ông Hoàng luôn về ngự đồng, cũng bởi vì ông còn được coi là người được Vua Mẫu giao cho đi chấm lính nhận đồng (khác với Ông Bảy, những người nào mà sát căn Ông Mười thì thường hay hào hoa phong nhã, giỏi thi phú văn chương). Khi ngự về đồng Ông Mười thường mặc áo vàng (có thêu rồng kết uốn thành hình chữ thọ), đầu đội khăn xếp có thắt lét vàng, cài chiếc kim lệch màu vàng kim. Ông ngự về tấu hương rồi khai quang, có khi ông múa cờ xông pha chinh chiến, có khi lại lấy quạt làm quyển thư, lấy bút gài đầu để đi bách bộ vịnh phú ngâm thơ, có khi ông lại cầm dải lụa vàng như đang cùng người dân lao động kéo lưới trên sông Lam (quan niệm cho rằng đó cũng là ông kéo tài kéo lộc về cho bản đền) và ông cũng cầm hèo lên ngựa đi chấm đồng như Ông Bảy, người ta cũng thường dâng tờ tiền 10.000đ màu đỏ vàng để làm lá cờ, cài lên đầu ông. Khi ông ngự vui, thường có dâng đọi chè xanh, miếng trầu vàng cau đậu, thuốc lá (là những đặc sản của quê hương ông) rồi cung văn tấu những điệu Hò Xứ Nghệ rất mượt mà êm tai.

Đền thờ Ông Hoàng Mười là Đền Chợ Củi, chính là nơi năm xưa di quan ông trôi về và hóa, qua cây cầu Bến Thủy, bên sông Lam, núi Hồng Lĩnh, thuộc xã Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (cũng chính là nơi quê nhà của Ông Mười). Ngày ông giáng sinh 10/10 âm lịch được coi là ngày tiệc chính của ông, vào ngày này, du khách thập phương nô nức đến chiêm bái cửa đền ông thật là tấp nập, trải dải đến tận đôi bờ sông Lam, người ta dâng ông: cờ quạt bút sách ... để cầu tài cầu lộc cũng là cầu mong cho con em được đỗ đạt khoa cử, thành tài để làm rạng danh tổ tông.

Khi thỉnh Ông Mười, văn hay hát rằng:

Văn khấn Ông Hoàng Mười

Văn khấn 1:

 

Cành hồng thấp thoáng trăng thanh ,

Nghệ An có đức thánh minh ra đời .

Gươm thiêng chống chỉ đất trời

Đánh Đông , dẹp Bắc việc ngoài binh nhung .

 

Thanh xuân một đấng anh hùng .

Tài danh nổi tiếng khắp vùng Trời Nam .

Hai vai nặng gánh cương thường ,

Sông Lam sóng cả , buồm dương một chèo .

Dựng nền đức Thuấn nhân Nghiêu ,

Sóng yên bể lặng sớm chiều thảnh thơi .

Khi Bích động lúc Bồng lai ,

Non nhân , nước trí mọi nơi ra vào

Cỏ hoa hớn hở đón chào .

Nhớ xưa Lưu Nguyễn lạc vào Thiên thai .

Trời Nam có đức Hoàng Mười ,

Phong tư nhất mực tuyệt vời không hai .

Nền chí dũng , bậc thiên tài ,

Văn thao - Võ lược tư Trời thông minh .

Tiêu dao di dưỡng tang tình .

Thơ Tiên một túi - Phật Kinh trăm tờ .

Khi Phong nguyệt , lúc bi từ .

Khi xem hoa nở , khi chờ trăng trong .

Khi Thiếu lĩnh , lúc non Bồng ,

Cành cây mắc võng , lòng sông ngự thuyền .

Người Thành thị , khách Lâm tuyền ,

Nam thanh nữ tú mình quyền bóng sang .

Phong quang đẹp ý Đức Hoàng .

Khác nào Thu cúc - Xuân lan tới tuần .

Xiết bao bể ái , nguồn ân .

Ban Tài , tiếp Lộc , thi nhân , thi từ .

Cát đằng thuận gió xuân đưa

Xui lòng quân tử đề thơ hảo cầu

Năm ba Tiên nữ theo hầu ,

Trăm hoa cài tóc , nhiễu Tàu vắt vai .

Phong hoa tuyết Nguyệt đượm mùi ,

Dâng câu thiên bảo chúc lời tăng long

Trần duyên chưa trút được lòng ,

Đường mây sớm trở xe hồng thượng Thiên .

Nghe thường hội nghị quần Tiên ,

Nghe tin người đến thiên duyên chạnh lòng .

Vân tiên mượn cánh chim hồng ,

Xin người soi tỏ tấc lòng cho chăng ?

Cầu Ô đem bắc sông Ngân ,

Ngồi trong cung Quảng đêm Xuân mơ màng

Bóng trăng soi tỏ canh trường .

Đã cam tấc dạ tuyết sương cùng người .

Thủy tiên dìu dặt đón mời ,

Bấy lâu khao khát đầy vơi chạnh lòng .

Vượt bể đào tới ngàn xanh .

Đường Tiên cảnh cũ nặng tình nước non .

Trúc xinh cô Quế cũng giòn .

Phù dung yểu điệu - Mẫu đơn não nùng .

Ngày ngày lên núi ngóng trông .

Đỏ hai khóe hạnh chờ mong Đức Hoàng .

Nhớ xưa hẹn ngọc , thề vàng .

Mừng nay tỏ mặt Đức Hoàng tới nơi

Lên núi rồi lại xuống đồi ,

Dưới trăng luống những đứng ngồi ngẩn ngơ .

Vào rừng hái lá đề thơ ,

Cậy đôi cánh Nhạn tin đưa tới người .

Cõi Trần mở tiệc mừng vui .

Đông về nhớ Đức Hoàng Mười giáng sinh .

Rượu đào kính chúc Thánh minh .

Phong hoa , tuyết nguyệt phẩm bình mấy chương .

Ngẫm câu Thế sự vô thường

Tấc son mượn nước cành dương tưới nhuần

Vắng người vắng cả mùa Xuân .

Nhớ người vì Nước , vì Dân , vì Đời .

Thế gian nhớ miệng Hoàng cười

Nhớ khăn Hoàng chít , nhớ lời Hoàng ban .

Khi phố Cát , lúc đồi Ngang ,

Nón kinh vó ngựa , dăm ngàn tiêu dao .

Đường đường cung kiếm anh hào ,

Túi thơ , bầu rượu sớm chiều sênh sang .

Hèo hoa chảy hội Tiên hương

Chấm đồng nhận lính khắp miền Đông Tây .

Khi nương gió , lúc cưỡi mây .

Khi rung khánh ngọc , khi lay chuông vàng .

Hoàng về gối xếp ai mang ,

Hèo hoa ai vác ngựa vàng ai trông .

Lệnh truyền cô Quế , cô Hồng ,

Hèo hoa , gối xếp , đèn lồng tay mang .

Cô Lan , cô Huệ xếp hàng ,

Gióng yên , dắt ngựa lên đàng vân du .

Thuyền Rồng thấp thoáng chèo đưa ,

Tinh kỳ nhã nhạc Hoàng về Nghệ An

 

 

Phú chuốc rượu :

 

Bồ đào tửu Linh Sơn tiên nữ cất

Đợi xuân về hội nghị quần tiên

Rượu nồng tiên nữ dâng lên

Tuần sơ dâng tiến án tiền mời Hoàng xơi

Hoàng cúc bôi trung đường tiên tửu

Hằng Nga thiên thượng tuyết thu ba

Tay tiên chuốc chén hoàng hoa

Nhị tuần dâng tiến mới đà thiết thi

Sao thế nhỉ trăng khi mờ khi tỏ

Gớm ghê thay nàng Ngọc Thỏ đa tình

Tay tiên chuốc chén rượu quỳnh

Tam tuần hiến,hỏi ba vạn sáu ngàn ngày là mấy…

 

Phú

 

Bởi tiền thế tu nhân tích đức

Khiến xui lên gặp bạn tiên cung

Nợ trần hoàn vương vấn chưa xong

Giục lòng khách mơ mòng tưởng nhớ

Nay đến lúc Hoàng về người ở

Thôi thôi đành vĩnh cách trường ly

Nghĩa trăm năm còn bức ca thi

Dâng hoàng tử làm khi tiễn biệt

Một lối lên tiên nhẹ gót trần

Mây trời cỏ đất hội long vân

Ba sinh gặp gỡ say vì cảnh

Một phút mơ màng vạn cảnh xuân

Văng vẳng bên tai cung đàn nguyệt

Vang vang trong động thú chào xuân

Chẳng hay cảnh ấy về đâu tá

Mong tới nguyên đào vẫn chủ nhân

Hoa đào rơi rắc lối thiên thai

Suối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi

Nửa năm tiên cảnh bước trần ai

Ước cũ duyên xưa có thế thôi

Đá mòn rêu nhạt nước chảy hoa trôi

Cánh hạc bay cao vút tận trời

Ngõ hạnh vườn đào xa cách mãi

Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng soi

Yên hà lối trước lại lần sau

Nước biếc non xanh thắm một màu

Đàn hát hôm nay êm dìu dịu

Hạt mây này nọ sạch lầu lầu

Cây xưa lối cũ say vì cảnh

Gió mới xuân về chẳng khác xưa

Nhìn tiên cảnh năm xưa còn đứng đó

Hỏi người năm cũ bây giờ đâu

 

Hò Nghệ An:

 

Đất lề quê thói Nghệ An

Miếng trầu cau đậu dâng quan Hoàng Mười

Trông hoa lại nhớ đến Người

Đông về lại nhớ Hoàng Mười Nghệ An

Đất Nghệ An có anh hùng hào kiệt

Tiếng Ông Mười lẫm liệt ngàn xưa

Vung gươm lên ngựa đề cờ

Ra tay gìn giữ cõi bờ Việt Nam

Chí anh hùng ra tay giữ nước

Đi tới đâu giặc phải tan ngay

Việt Nam ghi nhớ sử này

Cung cao điện ngọc đêm ngày khói nhang

Khi hội nghị luận bàn việc nước

Hoàng mang tài thao lược hiến dâng

Lĩnh sắc rồng khiển tướng điều quân

Gươm thiêng ba thước,ngựa hồng xông pha

Đò từ Đông Ba đò qua Vĩ Dạ,

Đò từ Đầm Đá tới Phú Vân Lâu

Non xanh nước biếc một màu

Một con đò nhỏ đưa ghế ông về thăm cảnh Nghệ An

Cũng có phen lên ngàn xuống bể

Trở ra về phủ tía lầu son

Cũng có phen ngắm ánh trăng tròn

Khi xem huê nở khi chờ trăng lên

Đường về xứ Nghệ nghĩa tình,

Sông Lam núi Quyết địa linh bao đời,

Tam Kỳ Mỏ Hạc là nơi,

Đền thờ lăng mộ đời đời khói nhang

Nước sông Lam răng trong răng đục

Gạo chợ Chùa vừa trắng vừa trong

Ghế ông tình mặn nghĩa nồng

Điều lành điều dữ sá cùng trần gian

Muối ba năm muối kia còn mặn

Gừng chin tháng gừng hãy còn cay

Ghế ông đây tình nặng nghĩa dày

Xa xôi chăng mấy cũng về đây ngự đồng

Thuyền rồng còn đợi bến sông

Chở các thanh đồng đi hội trong Nghệ An

Cho dù cách trở sông Lam

Có cầu Bến Thuỷ bắc ngang đôi bờ

Dòng sông Lam bên lở bên bồi

Dấu thiêng Hoàng để muôn đời khói nhang

Đất Thiên Bản còn nhớ người trấn thủ

Đền Mẫu Phủ Giày còn lồng lộng chữ công danh

Ông Mười trấn thủ trong thành

Mười ba năm lẻ còn nức danh tướng tài

Thành Huế ơi sông Hương răng núi Ngự

Cầu Tràng Tiền ,Bến Thuỷ đẹp long lanh

Năm cửa ô về tới đô thành

Nam Đàn xứ Nghệ nức danh Hoàng Mười

Đường vô xứ Nghệ loanh quanh

Nơi Ông Mười ngự như tranh hoạ đồ

Ai vô xứ Nghệ thời vô

Qua cầu Bến Thuỷ tới kinh đô Hoàng Mười

Ngắm xem phong cảnh đất trời

Nghệ An mến khách mến người trọng ân

Cỏ cây chưa trút bụi trần

Đường về chẳng biết rằng gần hay xa

Xinh thay hỡi thú yên hà

Đào nguyên ướm hỏi ai là chủ nhân

Đường xa muôn dặm cũng gần

Giáng lâm giá vũ đằng vân ngự đồng

Chim khôn đã phải cẩm lồng

Cau non, thuốc lá chiều lòng (Hoàng) ăn chơi

Vân du góc bể chân trời

Không đâu lịch sự bằng nơi đền này

Bao giờ Hồng Lĩnh hết cây

Sông Lam hết nước ghế ông đây chưa hết lộc tài

Độ cho đắc lộc tài sai

Thọ khang phú quý trong ngoài hanh thông

Bốn mùa xuân hạ thu đông

Thu Đông tiếp lộc,hạ xuân tiếp tài

Ai mà ăn nói đơn sai

Dù cho của cải cũng để ngoài bể đông

Thương ai chấp lính nhận đồng

Tu nhân tích đức lên công vẹn thành

Ai ơi nên ở cho lành

Kiếp này chưa trọn Hoàng để dành kiếp sau

Nào trời có phụ ai đâu

Sở nguyện như ý sở cầu tòng tâm

Ai mà tích đức tu nhân

Đắp bồi cội phúc thêm phần đề đa

Trăng bao nhiêu tuổi trăng già

Ghế Hoàng bao nhiêu tuổi mà vẫn hào hoa như thuở nào

Trên trời vằng vặc ngôi sao

Trời nam chói lọi anh hào cổ xưa

Thương người dầu dãi nắng mưa

Thương người đi sớm về trưa nặng lòng

Chứng tâm chứng lộc cho đồng

Cho cầu nên ước được gia trung thuận hoà

Các cô quạt nước pha trà

Quần tiên múa hát xướng ca hoạ vần

Cô dâng lên chiếc quạt trầm

Nghiên vàng bút ngọc ân cần khoan thai

Đầu lược giắt,chân giậm văn hài

Cô cả dâng điếu ngự,cô nàng hai theo hầu

Cô ba gối xếp theo sau

Đất lề quê thói cô tư têm trầu Hoàng xơi

Cô năm dâng giá gương soi

Còn cô nàng sáu rượu mời dâng ông

Cô bảy dâng đoá huê hồng

Còn cô nàng tám kiệu rồng rước(ông Mười) lên

Cô Chín múa lượn xênh tiền

Thướt tha yểu điệu khách tiên mơ màng

Cô Mười thỏ thẻ oanh vàng

Tiếng tiêu cô thổi khiến lòng Hoàng nâng nâng

Cô mười một thơ hoạ đôi vần

Dâng ông quý vật kì tân đủ mùi

Cô mười hai sắc nước hương trời

Mười hai cô tiên nữ phò giá Ông Mười lai kinh

Lý nghệ an:

 

thuyền ai thả lưới buông câu

khoan hỡi dô khoan thuyền quan hoàng thập

dập dìu trên sông sóng nước mênh mông

hương ngát bay trong đền lòng hoàng thấy nâng nâng

uy danh sáng soi muôn đời một lòng giữ yên trời nam

muôn dân bắc nam phụng thờ hoàng độ cho nước non bình an

lòng hoàng thương đồng còn nhiều gian nan

nắng mưa không quản xin hoàng chứng cho lòng con

tâm tư theo cánh nhạn hồng gửi về xứ thiên trời nam

độ cho phúc lâu giàu bền lộc vô nhà như nước dòng sông lam

-bên dòng sông lam có đền đức quan hoàng mười

địa linh nhân kiệt vang danh lưu dấu muôn đời

ngự đồng chơi hào hoa phong nhã

bao người ngóng trông hộ quốc dân an cho mai sau đời đời ấm no

phúc lai cho thanh đồng ghế ông hằng ghi nhớ mãi

con cúi xin ông mười ông về tiếp lộc để lần sau.

 

Văn khấn 2:

 

Trình bày : Xuân Hinh/Album : Văn Ca thánh mẫu CD2

 

Hay nói về tài đức của ông cũng có đoạn (cả trong hát văn và những câu hò xứ Nghệ):

 

“Gươm thiêng chống đất chỉ trời

Đánh Đông dẹp Bắc việc ngoài binh nhung

Hai vai nặng gánh cương thường

Sông Lam sóng cả buồm giương một chèo”

“Đất Nghệ An anh hùng hào kiệt

Tiếng Ông Mười lẫm liệt ngàn xưa

Cung gươm lên ngựa đề cờ

Ra tay gìn giữ cõi bờ Việt Nam”

“Chí anh hùng ra tay cứu nước

Đi tới đâu giặc bước lui ngay

Việt Nam ghi chép sử dày

Cung cao điện ngọc đêm ngày khói nhang”

“Năm cửa ô tới Đô Thành

Nam Đàn, Nghi Lộc nức danh Ông Mười”

 

Rồi có cả đoạn thơ hát khi Ông Hoàng Mười “tái đáo Thiên Thai”:

 

“Hoa đào rơi rắc lối Thiên Thai

Suối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi

Ngõ hạnh suối đào xa cách mãi

Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng soi

Đá mòn rêu nhạt nước chảy hoa trôi

Ước cũ duyên xưa có thế thôi”

 

Hay khi dâng ông miếng trầu têm, văn thường hát:

 

“Đất lề quê thói Nghệ An

Miếng trầu cau đậu dâng Quan Hoàng Mười”

 

Và có cả khi văn tấu điệu hò Nghệ Tĩnh để ông vỗ gối ban thưởng:

 

“Muối đã mặn ba năm còn mặn

Gừng đã cay chín tháng vẫn cay

Ghế ông tình nặng nghĩa dày

Xa xôi đến mấy, ra đây ngự đồng”

“Xứ Nghệ vui nhất Chợ Vinh

Đẹp nhất Bến Thủy, anh linh Ông Mười”

Sự tích Ông Hoàng Mười và bài văn khấn chuẩn

Suckhoecuocsong.com.vn

Các tin khác